Bên tả ngạn của dòng Hương Giang, thuộc xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên-Huế, cuộc sống của hơn 450 giáo dân thôn Ngọc Hồ phía trước là sông, phía sau là núi đồi, thật bình dị mộc mạc với công việc đi củi, đốt than, trồng ngô, trồng đậu... không có chợ búa, một con đường làng duy nhất, được bê tông hoá chạy dọc theo bờ sông, cũng đủ cho một chiếc xe gắn máy chạy thong thả. Nếu mà chỉ như thế thôi, thì ở đây chẳng có gì đáng chú ý!
Điều đáng chú ý nơi đây, phía trên đồi ở sau nhà thờ giáo xứ có một nghĩa trang, Nghĩa trang này không giống như các nghĩa trang khác, nghĩa trang dành riêng cho những hài nhi không bao giờ được sinh ra, nghĩa trang của các thai nhi vô tội, vì một lý do nào đó, đã bị tước đoạt sự sống từ trong lòng mẹ.
“ Tôi không biết em là trai hay gái,
Tiếng kinh buồn cất tiếng gọi thai nhi,
Có ngày tử khi ngày sinh chưa đến,
Buộc chào đời bằng cái chết oan khiên...
Tôi muốn biết những điều em muốn...
Tội lỗi nào đã tạo tác tử sinh,
Những lời kinh rời đôi môi tắt nghẹn,
Ngọn nến hồng, chưa kịp sáng lung linh” ( 1 )
Nghĩa Trang Thai nhi này là nghĩa trang được hình thành đầu tiên tại Việt Nam từ đầu năm 1992, do sự khởi xướng của một số linh mục giáo phận Huế. Với tấm lòng của yêu thương các ngài và sự cộng tác tích cực của một số anh chị em giáo dân, mà nghĩa trang này đã đang và sẽ là nơi dung thân, nơi yên nghỉ cho các thai nhi vô tội bị tước đoạt sự sống.
Ý thức tinh thần thương người có 14 mối, mối thứ 7 của việc thương xác, là: “ chôn xác kẻ chết”, và đáp lời kêu gọi bảo vệ sự sống, đã có những anh chị em giáo dân tích cực tìm kiếm xác các thai nhi để đưa lên an táng nghĩa trang này. Tại đây có 2 người chuyên lo việc an táng các thai nhi được thu lượm từ các Bệnh Viện, là ông G.B Trương Văn Năng, 47 tuổi, và ông Anrê Tống Viết Hiếu, 45 tuổi, cả hai đã kiên trì làm công việc này suốt 17 năm qua, và vẫn đang tiếp tục nhiệt tình phục vụ. Những buổi ban đầu công việc còn nhiều khó khăn, chưa được công khai, có những đêm khuya, không có đò đưa sang sông, Ông Hiếu, phải mang những cái thi hài bé bỏng bơi sang sông Hương để kip an táng trước lúc trời sáng. Và Ông Năng cho biết: “ Mỗi tuần, tôi chôn cất khoảng 30 đến 35 xác thai nhi, có những tháng cao điểm đến 50 xác thai nhi mỗi tháng. Tính đến thời điểm hiện nay ( 5/2009). Nghĩa Trang đang có hơn 32.000 xác thai nhi được chôn cất”.
Từ năm 1992 cho đến 1999, các nấm mồ đơn sơ chỉ được đắp lên bằng đất mà thôi, nhưng từ năm 2000 đến nay, nhờ sự giúp đỡ của các linh mục, của một số ân nhân, các nấm mồ đã được xây bằng ximăng...
Phía trên nghĩa trang là thánh tượng Đức Mẹ Maria, Mẹ các sinh linh bé nhỏ, và tượng các thiên thần, được xây dựng với sự tài trợ của bà Bác sĩ Nguyễn Quý Thể.
Nghĩa trang Thai Nhi này như là dấu chứng tố cáo một nền văn hoá sự chết đang hoành hành trong thế giới văn minh của một chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ, nhưng mặt khác qua việc chôn cất xác các thai nhi, những người phục vụ việc tống táng đang cũng làm chứng cho một nền văn minh tình thương, nền văn hoá sự sống, xuất phát từ Thiên Chúa là Chủ Sự Sống.
Nhiều người đã đến viếng thăm nghĩa trang này và thắp nén hương cảm thương cho những số phận xấu số không được khóc tiếng khóc chào đời. Họ là những cha mẹ của các thai nhi, là ông bà hay thân nhân, có những người “ đến mà xem” cho biết, có những đoàn thanh niên nam nữ đến đây để học bài học bảo vệ sự sống từ những nấm mồ vô tội. Có các linh mục, tu sĩ, ... đến để dâng lễ và cầu nguyện cho các em, và cũng có những tăng ni phật tử đến viếng thăm và cầu siêu cho các sinh linh bé bỏng oan khiên.
“... Lạy Mẹ Maria, bình minh của thế giới mới, là Mẹ của các sinh linh. Chúng con nài xin Mẹ biện hộ cho sự sống của các thai nhi vô tội bị ngăn chặn chào đời. Nhiều người nam người nữ là nạn nhân của bạo lực phi nhân và của những luật lệ tồi tệ, bị văn hoá sự chết khủng bố. Xin Mẹ cho chúng con biết loan báo Tin Mừng Sự Sống của Đức Kitô”( 2 )
-----------------------------------------------------------
( 1 ) Bài thơ của một thi sĩ khuyết danh, được viết trên một bảng đá ở Nghĩa Trang Thai Nhi Ngọc Hồ
( 2 ) Lời cầu nguyện của linh mục Phaolô được khắc ghi trên bia đá đề ngày 11-4-2008
sưu tầm