Diễn Đàn Công Giáo Gx.Bến Gỗ
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Công Giáo Gx.Bến Gỗ


 
Trang ChínhGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Bài gửi sau cùng
Bài gửiNgười gửiThời gian
[�] Thư Gửi Cho Những Blogger Tuyên Xưng Nước Chúa Thu Mar 28, 2013 4:45 am
[�] Khi Yêu Trái Ấu Cũng Tròn Sun Jul 22, 2012 9:55 pm
[�] Tình Chúa cao vời Sun Jul 22, 2012 9:28 pm
[�] Lam dau - Phan Dinh Tung Sun Jul 22, 2012 9:25 pm
[�] on goi cua ngoi sao Sun Jul 22, 2012 9:22 pm
[�] Rớt nước mắt nơi "nghĩa địa"... online Fri Jun 01, 2012 9:50 am
[�] Yêu Nhau Không Bằng Hiểu Nhau Tue Mar 20, 2012 8:47 pm
[�] CÂU CHUYỆN SUY NIỆM HẰNG NGÀY : NGÔN NGỮ CỦA TÌNH YÊU Thu Feb 02, 2012 4:42 pm
[�] NGƯỜI MẸ BỒNG CON Wed Feb 01, 2012 9:04 pm
[�] NGÀY THỨ NĂM CẦU NGUYỆN CHO SỰ HIỆP NHẤT 2012 Fri Jan 20, 2012 6:16 pm
[�] NGÀY THỨ BẢY CẦU NGUYỆN CHO HIỆP NHẤT Fri Jan 20, 2012 6:13 pm
[�] NGÀY THỨ SÁU Fri Jan 20, 2012 5:06 pm

 

 Đi tu "sướng" hay "khổ"?(cont)

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 121
Join date : 16/07/2009
Age : 36
Đến từ : Ben Go-Bien Hoa-Xuan Loc

Đi tu "sướng" hay "khổ"?(cont) Empty
Bài gửiTiêu đề: Đi tu "sướng" hay "khổ"?(cont)   Đi tu "sướng" hay "khổ"?(cont) I_icon_minitimeMon Sep 07, 2009 10:35 pm

Cái khổ đầu tiên mà các cha gặp là “muốn làm người bình thường mà không được.” Dĩ nhiên, được yêu mến, kính trọng, được dành chỗ đặc biệt trong nhà thờ, nhà hàng thì vui đấy; nhưng nếu thử tưởng tượng một cô ca sĩ phải cười tươi đủ 8 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần, thì thế nào cũng có lúc mong khép nụ cười lại cho đỡ mỏi. Khổ nỗi thiên hạ không cho, cứ bắt phải… cười!!! Ngồi chỗ dành riêng mãi chẳng vui thú gì đâu. Ăn cũng giữ ý tứ, nói cũng cẩn thận, ngồi cũng nghiêm trang. Hàng trăm con mắt nhìn vào mình thì còn thích thú gì? Đấy là chưa kể đến các đám cưới, gia đình cô dâu chú rể quý mến cha quá, cho ngồi bàn đầu tiên ngay bên cạnh hệ thống âm thanh. Nói chuyện cứ như quát. Lúc đi ra khỏi tiệm mới biết rằng mình bị điếc một bên tai vì ban nhạc chơi quá tay. Giá mà ở nhà làm một bát cơm canh thì thật thú vị! Có cha than thở rằng bao giờ đi ăn tiệc cũng đói, về nhà phải làm thêm tô mì. Lý do là vì có lần nghe bà cụ kia than trong tòa giải tội “cha phó của con ăn uống cứ như người đời” thành ra “nhột” không dám ăn nhiều trước công chúng nữa.


Cái khổ thứ hai là cái khổ của “đời tôi cô đơn”. Chẳng phải là cô đơn thiếu đời sống gia đình mà là cô đơn không có bạn, không có người hiểu và thông cảm với mình. Một vị hồng y Việt nam đã nói rất chân tình: “Vào tiểu chủng viện, tôi mất một số bạn cũ tiểu học. Rồi mỗi năm mất thêm một số bạn. Họ rời chủng viện, mình còn đi tu, đâu dám liên lạc. Lúc lên đại chủng viện, làm thầy, mất thêm mớ nữa. Sau ngày chịu chức linh mục, số bạn mà mình dám kể chuyện tâm tình cho nhau nghe, chỉ còn trên đầu ngón tay. Đến lúc làm giám mục thì coi như chẳng còn ai, vì chẳng ai muốn làm bạn với giám mục. Rồi khi lên hồng y thì coi như... hết đời. Hết bạn, hết bè, hết người nói chuyện!


Có người thương cha quá bèn nói “cha có Chúa Thánh thần ở cùng, nên chẳng cần quen biết với bạn bè ngoài đời làm gì. Có buồn thì cầu nguyện với Chúa là xong”. Nói như vậy cũng chẳng khác gì nói “cha gần Chúa, cha sắp làm thánh rồi, đừng ăn uống nữa!”. Giá được như thiên thần, không cần ăn uống, không biết hỉ, nộ, ái, ố gì nữa thì cũng tốt. Nhưng soi gương thấy mình giống xác ướp trong phim Ai cập quá, chẳng còn cảm xúc.


Có cha mỗi lần đi qua các bức tượng đá nơi công viên lại mỉm cười, ngẫm nghĩ, mình được kính trọng giống như tượng đá. Nhìn xa thì oai vệ, có ai biết rằng tượng phải làm tượng cả ngày lẫn đêm, lúc nắng gắt cũng như mưa gió bão bùng. Có ai muốn làm tượng đá cô đơn nơi công viên không nhỉ?


Cái khổ thứ ba là bị “quân Giu-Dêu” nó chửi mà mình lại không có quyền “chửi” lại chúng. Bá nhân, bá tánh. Làm dâu trăm họ, có cách nào chiều được mọi người không? Dễ dãi quá thì sợ sai luật giáo hội, luật địa phận, các bề trên quở trách. Đúng luật thì bị lên án là “làm phách”. Giải thích cũng chẳng ai thèm nghe. Đương nhiên sau khi phật ý, là có màn chê bai ngay. Nếu chỉ chê trách hoặc kể sự việc cho chính xác thì cũng được coi là công bằng, nhưng mà chê bai thì phải đi đôi với… nói xấu. Thế là các thói xấu của cha, những việc xảy ra cách đây chừng vài chục năm, được kể hết. Người nghe, ai mất công kiểm soát lại xem sự việc đó đúng hay sai? Có xảy ra thực như vậy hay không? Thiên hạ dễ tin cái xấu hơn cái tốt, dễ nhớ điều sai của người khác hơn cái phải của họ. Có đúng không?


Tương tự như cái khổ thứ ba là cái khổ thứ tư. Bị thiên hạ vu vạ, cáo gian mà mình không có quyền tìm cách giải thích cho công khai. Một mặt thì trên tòa giảng, cha nói về yêu thương, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ thù, đến lúc có người vu khống lại dãy nảy lên như đỉa phải vôi, thanh minh, thanh nga thì còn rao giảng Tin Mừng gì nữa? Rồi thiên hạ khoái nghe đồn. Một đồn mười, mười đồn trăm. Không khác gì bị lựu đạn khói, chẳng thấy đường nào mà thoát.


Với các cha thì mấy môn học về tâm lý trong chủng viện, lúc đem ra ngoài áp dụng, trật đường ray hết. Một vài cha cũng không biết mình nên sống kiểu Âu Mỹ hay kiểu Việt Nam. Có cha kể lại, khi thực tập lớp giải tội, người đóng vai hối nhân, sau khi xưng tội, cảm xúc quá, chạy đến bên cha -khi đó làm thầy-, khóc lóc thảm thiết, gục cả đầu vào đầu gối cha. Cha gạt sang bên tránh không cho hối nhân chạm vào mình. Cuối giờ có phần chấm điểm từ cha giáo và các bạn. Mọi người cho thầy điểm giải tội thì thuộc bài, nhưng về mục vụ thì suýt rớt. Lý do tạo cho hối nhân cảm tưởng họ là người tội lỗi, nhơ bẩn, không ai cho chạm vào, nhất là khi họ vừa bày tỏ tội lỗi, ngay cả những tội thầm kín nhất. Ghi nhớ bài học mục vụ này, lúc đến nhà xứ, gặp người xin xưng tội, diện đối diện, thay vì qua tòa kín. Cảm phục lòng can đảm, sau khi giải tội xong, cha bèn đứng lên, giang tay “hug” bình an hối nhân, sau đó quên bẵng. Ai dè, vài tháng sau có tiếng đồn rằng “cha ấy giải tội cho tao xong, còn đứng lên ‘ôm’ tao nữa mày ạ!”. Trời đất! Vậy có chết người không? Bây giờ làm sao đây? Không lẽ ông cha phải đi nói cho người ta biết rằng “tôi chẳng thèm ‘ôm’ cô ta đâu?”


Đấy là chưa kể đến các việc bàn hỏi, linh hướng liên quan đến bí tích giải tội hoặc thanh danh gia đình người khác, không được phép tiết lộ ra ngoài, đành phải im lặng, ngậm đắng, nuốt cay. Có chị kia bị chồng bạc đãi quá, chịu không nổi, chạy lên cha xin xưng tội và đồng thời vấn kế. Sau khi gặp vài lần, cha đề nghị hai vợ chồng gặp counselor phần đời. Chỉ có chị vợ đi còn anh chồng lần nào cũng bận. Bà vợ, với tâm tình phụ nữ Việt Nam, thỉnh thoảng mang biếu cha ít thức ăn, xin lễ cầu nguyện cho gia đình, như để tạ ơn cha đã giúp cho gia đình. Chẳng may, cuối cùng đôi đó tan vỡ. Ông cha bị anh chồng vu cáo “có tình ý với vợ tôi vì nhận quà của vợ tôi thường xuyên”. Để chạy lỗi, anh chồng kiếm sang chuyện khác. Ông cha lãnh đủ. Nên làm sao đây? Không lẽ đi kể chuyện nhà người ta ra, vợ chồng cãi nhau, đánh nhau, tranh giành tiền bạc, chơi bời thế nào để thanh minh cho mình? Một lần bực quá định “nói tọac móng heo” thì có người khuyên: “Thôi cha ạ! Đi tu phải hy sinh chứ! Khi xưa Chúa bị đau khổ trong vườn Giệt-si-ma-ni mà Ngài có than thở hay kể tội ai đâu?” Nghe cũng hợp lý. Đi tu mà! Nhưng “to be or not to be?”


Cái khổ thứ năm là dễ bị phân tích theo tiêu chuẩn rất chủ quan. Không khác gì tại Hoa Kỳ, đảng Dân chủ phân tích đảng Cộng hòa. Dân ta thì kính trọng cha, cụ đặc biệt nhưng thích nghe chuyện xấu về cha, cụ cũng nhiều, nhất là những chuyện liên quan đến tiền bạc và người khác phái. Đương nhiên đây là những vấn đề Giáo hội dạy phải cẩn thận, thế nhưng hình như mọi hình ảnh đều được phân tích do sự chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”, cho nên thấy chỗ nào cũng tội và cơn cám dỗ. Một ông cha ngoại quốc ôm chúc bình an thì không sao. Một cha Việt Nam thì… có sao. Sợ cha “lòng động lòng lo” dễ sa chước cám dỗ nhưng “không nói với cha, mà đi rỉ tai các người chung quanh!”. Có người đeo kiếng râm màu đen, có người đeo kiếng màu hồng và cũng theo màu đó mà phân tích cuộc đời ông cha. Người đeo kính màu hồng nhìn cha như thánh sống. Kính trọng cha quá

mức đến phát ngượng. Người đeo kính màu đen lúc nào cũng chỉ thấy lỗi lầm chung quanh cha. Cho nên nếu thấy cha vui vẻ, cười cợt với người khác phái thì sợ cha dễ bị sa ngã. Thấy có người đưa tiền xin lễ hoặc biếu xén rộng rãi thì nghĩ rằng họ đang lợi dụng cha. Thấy cha thăm viếng thường xuyên một vài gia đình thì lo cha sẽ bị ảnh hưởng của họ. Thế là các điều tiếng như: chỉ chơi với nhà giầu, thân nhà cô A, cô B lắm, thích ăn ngon, mặc đẹp, đi xe sang trọng, uống rượu một cây... Cha nào muốn sống thực với chính mình thấy khó quá. Có lẽ vì vậy mà nhiều cha lựa chọn đi làm với người bản xứ cho yên thân chăng?


Một vài người hiểu lầm hai chữ phê bình và góp ý hoặc hiểu đúng nhưng muốn gộp hai điều làm một. Thấy cha làm điều gì đó có vẻ “chướng mắt” cũng không dám nói, sợ mang tiếng chống đối, hay phê bình. Ngược lại, có người thì không góp ý bao giờ nhưng chỉ chờ dịp phê bình? Một vài vị còn sưu tầm các biến cố -đa số đều là biến cố qua cặp kính màu đen trong cuộc đời các cha để mai này sẽ có dịp mang ra dùng!!! Làm việc tông đồ mà có FBI theo dõi thì cũng hơi buồn.


Có người nói, quan tâm đến cha thì mới đặt vấn đề với cha. Vậy thì cha có bị cám dỗ không? Đến Chúa còn bị thì huống chi là ông cha. Ai mà chẳng bị. Nhưng có lẽ điều khác biệt là tập quán chống lại cám dỗ của mỗi người khác nhau. Ngay từ hồi nhỏ, khi mới đi tu, còn trong tiểu chủng viện, rồi lên đại chủng viện, chịu chức, những người đi tu đã cố gắng luyện tập cho mình thói quen này. Cầu nguyện, hãm mình, xét mình hằng ngày, chịu các bí tích, xưng tội thường xuyên, bàn hỏi với các linh hướng... là những phương cách hữu hiệu nhất để mau giúp đạt được tập quán đó.


Giống như người văn ôn, võ luyện thường xuyên, thì khi bị tấn công, dù bất ngờ, cũng trở tay mau chóng hơn người ít luyện tập. Cho nên, cùng cái bắt tay, cùng một hình ảnh nhưng người có tập quán chống lại cám dỗ, thì sức cám dỗ sẽ nhẹ hơn hoặc có khi chẳng là gì. Ngược lại, người quá bận rộn với các lo lắng khác, không có thời giờ phát triển tập quán chống lại cám dỗ hoặc nói cách khác đi, không phát triển tập quán mở cửa cho ân sủng, thì cơn cám dỗ đến thường xuyên và mạnh bạo hơn. Đấy là chưa kể đến người còn “enjoy” chước cám dỗ thì cơn cám dỗ càng dễ đến…


Vui buồn sướng khổ trong cuộc đời đi tu thì chẳng khác gì chuyện dài nhân dân tự vệ. Có lẽ cần nhìn đến con số thống kê để biết đi tu “sướng nhiều hay khổ nhiều”.

Theo Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ cho biết thì năm 2004, số thỉnh sinh Việt Nam chịu chức linh mục lên đến 20% tổng số toàn quốc. Mọi năm chỉ có 9%. Nếu so với tỷ lệ người Công giáo Việt Nam vào khoảng 400 ngàn trên 66 triệu người Công giáo Hoa Kỳ, tức là chưa tới 0.65%, vậy mà số tân linh mục là 20%. Như thế chứng tỏ rằng đi tu vẫn sướng, ít nhất là đi tu Việt Nam sướng hơn đi tu... Mỹ
Về Đầu Trang Go down
https://glvbengo.forumvi.com
 
Đi tu "sướng" hay "khổ"?(cont)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Đi tu "sướng" hay "khổ"?
» KINH ĐỌC HÀNG NGÀY"Prayers of the Rosary "
» Thư mục vụ tháng Tư 2009 của Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, giám mục giáo phận Phú Cường: "Sống mầu nhiệm phục sinh theo giáo huấn của thánh Phaolô"

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Công Giáo Gx.Bến Gỗ :: Nguyện cầu - Cảm tạ - Sống Đạo :: Ơn Thiên Triệu-
Chuyển đến